Rate this post

Cần hiểu về dầu nhớt

Cách đây không lâu người lái xe rất chú ý kiểm tra thường xuyên mức dầu nhớt có trong động cơ và định kỳ cho thay dầu mới cùng với bộ lọc mỗi khi xe chạy khoảng 3.000 dặm.

Hiện nay, nhờ vào những tiến bộ trong sản xuất động cơ mà xe chạy bền hơn, ít phải chăm sóc hơn cũng như nhờ những cải tiến về dịch vụ sửa xe, làm cho người lái xe mất dần thói quen thường xuyên kiểm tra mức dầu nhớt và tự bổ xung hoặc thay dầu máy cho xe ô tô của mình.

Câu hỏi đặt ra: Vì sao phải quan tâm đến dầu máy?

Dầu máy là một chất lỏng nhớt điền đầy các khoảng trống trong động cơ, có nhiệm vụ làm giảm ma sát cho các bộ phận chuyển động và chống ăn mòn cho các chi tiết của động cơ. Dầu máy còn đóng vai trò môi trường tản nhiệt và lưu giữ các hạt vụn kim loại kích thước cỡ micromet sinh ra do bào mòn các phần chuyển động của động cơ, muội than do cháy nhiên liệu và các sản phẩm tạo ra do dầu bị phân hủy.

Dầu máy bao gồm những gì? Thành phần chính của nó có khoảng 90% là dầu nặng – đó là tổ hợp các hyđrocacbon thuộc nhóm parafin từ dầu mỏ  (paraffinic hyđrocarbon). Phần còn lại là các phụ gia. để pha các loại dầu máy, người ta tổ hợp các thành phần hyđrocacbon nặng có độ dài mạch cacbon tùy thuộc vào tính chất cần thiết, thường nằm trong khoảng C16 đến C50.

Gốc cơ bản  (base stocks) được chia thành năm nhóm. Nhóm I-III là thành phần hyđrocacbon tách ra trong quá trình chưng phân đoạn dầu mỏ, còn nhóm IV-V là các dầu gốc được tạo ra bằng con đường tổng hợp các sản phẩm hóa dầu.

Dù xuất xứ như thế nào, dầu máy cũng phải thỏa mãn yêu cầu kỹ thuật được đánh giá theo một tiêu chuẩn chung được quốc tế thừa nhận.

Cấp độ của dầu máy dựa trên độ nhớt của nó ở nhiệt độ thường. độ nhớt càng cao, cấp độ của nó càng lớn. Thông thường cấp độ biểu thị bằng một con số nằm trong khoảng 0 – 50.

Việc chọn dầu máy phụ thuộc vào thời tiết. Ví dụ, loại dầu ký hiệu 5W-30 dùng cho trường hợp nhiệt độ rất lạnh dưới -20oC, loại 10W – 30 dùng cho trường hợp nhiệt độ lạnh tới -20oC, còn loại 20W – 30 dùng cho khí hậu ấm nhiệt độ tới 0oC. Tuy nhiên người ta cũng sản xuất loại dầu nhớt đa cấp độ. đây là thuộc loại đặc biệt chỉ dùng trong điều kiện thời tiết cực kỳ khắc nghiệt hay dùng cho các loại xe đua. Trong trường hợp này người ta cho thêm vào dầu các polyme như polymetylacrylat, poly-etylen để cải thiện độ nhớt của dầu gốc khi ở nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao.

Phụ gia là một phần rất quan trọng trong dầu máy. Thông dụng nhất hiện nay là dùng các phụ gia họ metal phenoxid có công thức RC6H4ONa trong đó R là gốc alkyl. Nhiệm vụ của chúng là trung hòa các axit tạo ra bởi các gốc sunfua có trong dầu; ngăn cản quá trình ôxy hóa xảy ra trong dầu; tẩy sạch và làm lắng đọng các hạt muội than, các sản phẩm phân hủy và vận chuyển chúng đến bộ lọc dầu để loại chúng ra khỏi chu trình làm việc của dầu máy.

Một lớp phụ gia khác được dùng làm chất chống bào mòn, ví dụ như dialkyldithiophotphat kẽm Zn[S2P (OR)2]2, trong đó R là gốc alkyl mạch thẳng. Chất phụ gia này bám thành lớp mỏng vài micromet trên bề mặt kim loại và có tác dụng ngăn cản bề mặt bị trầy xước.

Các hợp chất của kẽm cùng với các amin như là diphenylamin vừa là chất ức chế ăn mòn kim loại vừa là chất chống ôxy hóa.

Cuối cùng, một câu hỏi nóng bỏng đặt ra: ta nên thay dầu như thế nào?

Quả thực có nhiều thông tin khác biệt nhau về vấn đề này. Kinh nghiệm lâu nay đã được kiểm chứng của cánh lái xe là nên thay dầu máy mỗi khi xe chạy hết 3.000 dặm đường.

Nhưng cũng có những ý kiến khác. Với những cải tiến áp dụng trong sản xuất động cơ và sản xuất dầu máy hiện nay thì thay dầu cho 5.000 dặm đường là được, còn nếu thay sau 3.000 dặm là lãng phí và tăng thêm lượng dầu thải. Người ta còn thử nghiệm một loại dầu máy tổng hợp mới có các tính năng tốt, thậm chí sau khi chạy 25.000 dặm (40.000km) đường trong điều kiện thông thường mới cần phải thay dầu.

Nhờ tiến bộ khoa học, xe hơi được cải tiến với blốc máy mỗi ngày một mạnh hơn, thì nhớt máy cũng phải được cải tiến mỗi ngày để đáp ứng nhiệm vụ đặt ra cho mình. Máy càng mạnh càng phát nhiều hơi nóng, buộc nhớt phải làm việc vất vả hơn để hóa giải hơi nóng sinh ra trong lòng máy. Ðiều đó có nghĩa là, cùng với sự phát triển của xe hơi, nhớt cũng phải được cải biến với những tiến độ tương ứng.

Thông thường, nghĩ tới nhớt, ý tưởng chung của gần như tất cả chúng ta là nghĩ tới một chất lỏng trơn, có mục đích “làm trơn” các bộ phận kim loại khi chúng tiếp giáp với nhau.

Thế nhưng, ngoài cái nhiệm vụ dễ quan niệm và phổ quát ấy, nhớt còn làm được cái gì khác nữa không? Ðược, rất nhiều. Công dụng của nhớt, có ta có thể nói tóm lại trong 4 lãnh vực sau đây:

Làm trơn máy

Trước hết, nhớt phải làm trơn các linh kiện bên trong máy, để các thành phần này tiếp cận với nhau được dễ dàng, mà không làm tiêu lực do cọ sát. Nhất là khi xe mới đề máy, vai trò của nhớt lại càng trở nên quan trọng. Là vì, khi xe không chạy, đầu máy không làm việc, thì nhớt chảy về bình. Khi đầu máy vận hành, lập tức nhớt được huy động, và được bơm đến khắp mọi ngõ ngách trong máy, và tạo ra một lớp màng mỏng giữa những bộ phận chuyển động, làm trơn tru mọi sự cọ sát. Mỗi một loại máy cần tới một độ trơn nào đó, được cung ứng bởi lớp màng do nhớt tạo ra giữa 2 bề mặt chuyển động.

Có người cho rằng, nếu nhớt 30 là tốt, thì ắt hẳn nhớt 50 phải tốt hơn. Không hẳn thế. Nếu đầu máy của chiếc xe chúng ta đang sử dụng không tương xứng với nhớt 50, thì dùng nó chưa chắc đã tốt: Dùng nhớt 50 không làm cho máy mòn hơn, nhưng rất có thể sẽ nâng cao nhiệt độ trong lòng máy. Tình trạng này trước mắt có vẻ như “không sao”, nhưng về lâu dài, thì xe sẽ bị giảm thọ, do đầu máy bị hao mòn trước tuổi.

Nhớt phải bảo vệ

Lớp màng mỏng do nhớt máy tạo ra giữa 2 bề mặt kim loại, ngoài việc làm trơn, còn có thêm những công dụng khác quan trọng không kém. Ðó là giữ cho 2 bộ phận khỏi trực tiếp cà vào nhau khi tiếp xúc, nhờ đó chúng không bị bào mòn. Ðiều này có vẻ như là một công dụng hiển nhiên. Nhưng một điều không hiển nhiên, mà quan trọng không kém. Ðó là nhớt phải giúp cho các linh kiện máy chống lại tiến trình bị ăn mòn (corrosion). Xin phân biệt rõ: Bào mòn (wear) xảy ra khi 2 vật thể tiếp xúc vào nhau, còn “bị ăn mòn” là do tiếp cận hóa chất trong không khí hoặc môi trường. Ngoài việc bị bào mòn khi tiếp cận, các bộ phận trong đầu máy còn có thể bị hóa chất ăn mòn nữa. Xuyên qua thời gian sử dụng, nhớt bị ốc xít hóa, hoặc hấp thụ những chất ô nhiễm và “phó phẩm” sinh ra trong tiến trình cháy nổ ở đầu máy, làm nhớt biến chất, với nồng độ acid càng lúc càng cao. Rồi trong khi làm nhiệm vụ, nhớt lại trải acid ra trên mặt các linh kiện máy, và như thế tiến trình ăn mòn bắt đầu, mau chóng đưa đến sự suy sụp của máy. Vì thế, nhớt phải được chế tạo với những đặc tính chống lại các chất acid này.

Nhớt phải làm sạch

Nếu đầu máy không sạch, máy không thể nào hoạt động hiệu quả. Các chất cặn dơ đóng trong máy sẽ cản trở chuyển dộng của các bộ phận máy, gây hao tốn nhiên liệu, và đầu máy không thể làm việc hiệu quả. Thêm vào đó, các chất ô nhiễm ẩn chứa trong nhớt, nếu không có cách trị, có thể bào mòn linh kiện máy rất thê thảm tới mức không còn có thể phục hồi được.

Bất cứ một vẩn bụi nào lớn hơn từ 5 tới 20 micron (tùy loại xe) đều có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho đầu máy nếu không được lấy ra hoặc “kềm chế” kịp thời. Ðể các bạn có một ý niệm về micron, xin hình dung sợi tóc trên đầu chúng ta. Người ta vẫn nói nhỏ hoặc mỏng như sợi tóc, nhưng dù mỏng nhỏ như vậy, một sợi tóc cũng đo được 100 micron độ dầy. Thì thừ hỏi, những vẩn bụi 20 micron, thậm chí 5 micron còn nhỏ đến thế nào? Ấy vậy mà chúng cũng có thể gây những tổn hại khó lường cho đầu máy. Ðiều này cho thấy nhớt phải sạch trong, tinh tuyền tới mức nào. Chính vì thế, công tác lọc nhớt (filter) là một việc làm rất quan trọng. Ngoài ra, nhớt còn phải tự mình thực hiện công tác thanh tẩy, tức là không cho vẩn bụi lắng xuống để kết tủa thành những tầng cặn trong đầu máy, mà phải liên tục đưa các chất ô nhiễm ấy luân lưu cho đến khi chúng được thải ra qua bộ lọc.

Nhớt phải làm mát

Nhớt máy càng đóng một phần lớn trong công tác làm mát máy. Nói tới làm mát máy, thường thì chúng ta chỉ nghĩ tới hệ giải nhiệt (tức cooling system). Thực ra, nước giải nhiệt chỉ làm mát được phẩn trên của đầu máy. Phần còn lại (chứa crankshaft, camshaft, timing gears, piston và rất nhiều thành phần quan trọng khác trong bl ốc máy) chủ yếu được làm mát do nhớt.

Tiến trình cháy nổ và sự cọ sát giữa các thành phần trong đầu máy phát sinh rất nhiều nhiệt. Sức nóng này được dòng nhớt hấp thụ khi nó chảy qua các bề mặt linh kiện, và được đưa về bình nhớt. Từ đây, sức nóng được phát tán vào tầng không khí bao quanh bình nhớt.

Phần sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu xem nhớt được cấu tạo thế nào để có thể thực hiện được những công tác trên.

Thành phần cấu tạo nhớt

Nhớt được tạo thành ra sao? Những yếu tố nào có ở trong nhót? Sự khác biệt cơ bản trong tiến trình chế tạo giữa nhớt thường (standard petroleum oil) và nhớt tổng hợp (synthetic) là gì?

Có 2 thành phần cơ bản mà bất cứ một loại nhớt nào cũng phải có. Ðó là: Phần căn bản và phần pha chế (additive). Phần căn bản là phần chính trong nhớt. Phần pha chế là những hóa chất được thêm vào, làm tăng chất lượng của nhớt, hoặc làm giảm những yếu tố tác hại vốn có trong nhớt.

Nói về phần căn bản, lại có 2 loại chính: Nhớt lấy từ dầu khí (petroleum), cũng là loại nhớt thường dùng, và nhớt tổng hợp (synthetic). Nhớt dầu khí là loại dầu thô tinh khiết, chủ yếu là thành phẩm của thiên nhiên. Còn nhớt tổng hợp, trái lại, là một tổng hợp các hóa chất, được bào chế pha trộn trong phòng thí nghiệm. Là một sản phẩm nhân tạo, dĩ nhiên, nhớt Synthetic chỉ dùng những hợp chất tinh khiết – không ô nhiễm  đáp ứng hiệu quả nhất với công tác được giao phó. Nhớt tổng hợp đã có từ những năm đầu thế kỷ 20, những phải chờ mãi đến thập niên 1970 thì mới trở thành phổ biến.

PHÂN LOẠI DẦU THEO ĐỘ NHỚT

Hiệp Hội Kỹ sư ô tô SAE (Society of Automotive Engineers) chủ yếu là USA, đưa ra hệ thống phân loại cho dầu động cơ theo độ nhớt động học, gồm có 11 cấp khác nhau:

Thay dầu là một trong những thói quen cần có đối với hầu hết những người đi ôtô, xe máy. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều hiểu cặn kẽ về những tính năng, cũng như thông số ghi trên sản phẩm này. Điển hình như chữ “W” trong ký hiệu SAE 10W40 ghi trên các loại dầu nhớt thường được nghĩ là “Weight”, trong khi thực tế nó dùng để chỉ từ “Winter”.

Như vậy đối với dầu mùa hè chúng ta có các cấp độ nhớt SAE 20, SAE 30, SAE 40, SAE 50 và SAE 60. Đối với dầu mùa đông (Winter – W) thì có SAE 0W, SAE 5W, SAE 10W, SAE 15W, SAE 20W và SAE 25W.
Đối với dầu dùng quanh năm, hay còn gọi dầu đa cấp (multi-graded motor oil) thì người ta kết hợp cả 2 loại trên và ký hiệu dạng SAE 5W-40, SAE 20W-50, SAE 10W-30

Việc xếp loại theo cấp độ nhớt SAE phản ánh khả năng của dầu chảy tại các nhiệt độ khác nhau. Các con số tăng dần từ 0W đến 60 tương ứng Độ nhớt tăng theo

Dầu đa cấp: (hầu như tại Việt Nam nhớt dùng cho xe gắn máy là nhớt đa cấp) W nghĩa là nó thực hiện tốt ở tình trạng mùa đông (khí hậu lạnh). Con số đầu tiên nhỏ hơn (xem ký hiệu dầu đa cấp) có khả năng chảy tốt hơn ở nhiệt độ cực lạnh và động cơ sẽ quay và dễ khởi động hơn. Con số thứ hai lớn hơn để phục vụ thời tiết nóng. Con số càng cao nó có thể sử dụng ở thời tiết càng nóng.

Ngoài loại đa cấp, nhiều nhà sản xuất cho ra cả loại dầu đơn cấp và chỉ có ký hiệu như SAE 40, SAE 50. Loại dầu này thường được dùng cho các loại động cơ 2 kỳ, máy nông nghiệp, công nghiệp..

Phần phân loại dầu động cơ theo cấp độ nhớt SAE tương đối đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, cơ quan chính phủ, Quốc gia hay cá nhân cũng có thể thử nghiệm, phí tổn thực hiện không đắt lắm chỉ khoảng giá cả 1 chai dầu nhớt (1 liter) cho xe máy hạng world-class!!!

PHÂN LOẠI DẦU THEO TÍNH NĂNG

Một hệ thống phân loại khác do 3 tổ chức hàng đầu của Mỹ là Viện dầu khí Hoa Kỳ – API (American Petroleum Institute), Hiệp hội Thử nghiệm và Vật liệu Hoa kỳ – ASTM (American Society for Testing and Materials) và SAE công bố …năm 1970 rất rất rất phức tạp, tốn kém và dĩ nhiên không phải Quốc gia nào cũng tiến hành theo qui trình này được. Hệ thống phân loại này được bổ sung, phát triển liên tục (chứ không phải ban hành năm 1970 rồi dừng!!) Và không phải hãng dầu nhớt nào muốn gắn cái logo này lên thì gắn

Và hệ thống này người ta gọi là hệ thống phân loại theo cấp chất lượng API đúng từ tiếng Anh là (The API Engine Service Classification System) bao gồm dầu nhớt cho động cơ Xăng và dầu nhớt cho động cơ dầu Diesel.

Dầu nhớt cho động cơ  Xăng có ký hiệu chữ (Service) đầu: SA, SB, SC, SD, SE, SF, SG, SH, SJ, SL,SM và mới nhất là SN ( cho các xe ô tô sản xuất từ năm 2010).

Dầu nhớt cho động cơ Diesel bắt đầu bằng chữ C (Commercial): CA, CB, CC, CD, CD-II, CE, CF, CF-2, CF-4, CG-4, CH-4, CI-4 và mới nhất là CJ-4 (cho các xe từ năm 2006).

Cần nhắc lại: Qui trình thử nghiệm theo hệ thống phân loại API này rất tốn kém và không phải Quốc gia nào cũng thử nghiệm được!!!
Các xếp loại cấp chất lượng cho động cơ xăng từ SA, SB, SC, SD, SE, SF, SG, SH đã lổi thời (obsolete) không được khuyên sử dụng ớ các động cơ ô tô mới sản xuất từ năm 2001, cấp SH theo khuyến cáo là chỉ dùng cho các xe từ năm 1996 và cũ hơn.
Tương tự, các xếp loại CA, CB, CC, CD, CD-II, CE,CF, CF,CF, CF-4  cũng thuộc dạng “obsolete” cho các xe đời 1985

Người tiêu dùng nên chú ý nếu xe diesel có bộ turbo tăng áp cần sử dụng dầu nhớt có API CH-4 trở lên và càng có cấp API càng cao như CI-4, CJ-4 để đảm bảo bộ turbo không bị hỏng do vòng quay trong bộ phận nén lên đến hơn 120,000 vòng/phút. Nên nhớ rằng vòng tua máy động cơ chỉ đạt 9600 vòng là các bạn đã vượt qua mức kim 140km giờ, xe đua Thể thức 1 (Formula 1 chỉ có mức maximum là 22,000 vòng).

Xe đời cũ có thể dùng dầu nhớt cấp cao dành cho xe đời mới, nhưng xe đời mới không nên dùng dầu nhớt cấp thấp hơn quy định.

Chú ý, nếu dầu động cơ được bôi trơn bằng loại dầu nhớt không đủ khả năng làm sạch máy hoặc không được thay đúng định kỳ, qua thời gian sử dụng, cáu cặn sẽ tích tụ trong rãnh pít-tông gây dính bạc séc-măng, gia tăng độ mài mòn xilanh, giảm tỷ số nén, xe sẽ hao xăng hơn, tiêu hao nhiều dầu hơn. Hậu quả là kèm theo là buồng nổ, bugi bị bám muội nhiều hơn, các súp-páp dễ bị tróc rỗ hơn…

Tác dụng và tính chất của dầu nhờn

sadws(“Network-Internet/Internet-Client-Suites/” ); Trong động cơ, dầu nhờn có nhiều tác dụng như giảm ma sát giữa hai bộ phận tiếp xúc trực tiếp với nhau, giải nhiệt làm mát, làm kín, chống ăn mòn. Tuy nhiên, tác dụng cơ bản nhất của nó vẫn là giảm ma sát nên độ nhớt là chỉ tiêu có ảnh hưởng quan trọng nhất đến chất lượng của một sản phẩm dầu nhờn thương mại.

Tính chất đặc trưng

Độ nhớt của dầu thay đổi theo nhiệt độ. Khi ở nhiệt độ cao, độ nhớt giảm và ngược lại. Dầu có độ nhớt thấp dễ di chuyển hơn so với dầu có độ nhớt cao. Ngoài ra, do trọng lượng của các phân tử cấu thành nên dầu nhờn có liên quan trực tiếp đến độ nhớt của nó nên người ta thường gọi thành dầu nặng hay dầu nhẹ. Dầu nhẹ dùng để chỉ loại có độ nhớt thấp, dầu nặng chỉ dầu có độ nhớt cao.

Trên thực tế, dầu nhẹ dễ bơm và luân chuyển qua động cơ nhanh hơn. Ngược lại, dầu nặng thường có độ nhớt cao, di chuyển chậm hơn nên có áp suất cao hơn nhưng lưu lượng dầu qua bơm lại thấp hơn

Dầu nhớt tổng hợp. Synthetic

Dầu nhờn sản xuất từ dầu mỏ vẫn chiếm ưu thế do nó có những ưu điểm như: công nghệ sản xuất dầu đơn giản, giá thành rẻ. Nhưng ngày nay, để đáp ứng yêu cầu cao của dầu nhờn bôi trơn, người ta bắt đầu quan tâm đến dầu tổng hợp nhiều hơn. Dầu tổng hợp là dầu được tạo ra bằng các phản ứng hóa học từ những hợp chất ban đầu, do đó nó có những tính chất được định ra trước. Nó có thể có những tính chất tốt nhất của dầu khoáng, bên cạnh nó còn có các tính chất khác đặc trưng như là: không cháy, không hòa tan lẫn trong nước. Ưu điểm của dầu tổng hợp là có khoảng nhiệt độ hoạt động rộng từ -55°C đến 320°C, có độ bền nhiệt lớn, có nhiệt độ đông đặc thấp, chỉ số độ nhớt cao… Chính những ưu điểm này mà dầu tổng hợp ngày càng được sử dụng nhiều, nhất là trong các động cơ phản lực.

Dầu nhớt Synthetic = Tốt nhưng đắt  .

Nhớt Synthetic ( nhớt tổng hợp) là lọai nhớt rất hữu hiệu trong việc kéo dài tuổi thọ máy . Nhớt này ĐẮT hơn , nhưng dĩ nhiên cũng tốt hơn rất nhiều so với các lọai nhớt phổ thông vốn là nhớt khóang vật ( mineral oil). Vận hành với nhớt Synthetic các linh kiện trong máy sẽ được bảo vệ hiệu quả hơn và chúng ta cũng không phải thay nhớt thường xuyên

DÙNG NHỚT KHOÁNG  HAY NHỚT TỔNG HỢP

Nhớt khoáng  ( mineral oil) là sản phẩm thiên nhiên được tinh lọc, còn nhớt tổng hợp (synthetic oil) thì hòan tòan là sản phẩm nhân tạo, do các kỹ sư hóa chất chế tạo từ phòng thí nghiệm dựa trên nhu cầu làm việc của nhớt trong động cơ. Ngòai ra còn có nhớt Bán tổng hợp (semi-synthetic) cũng được gọi là Premium là lọai nhớt pha trộn giữa 2 lọai nói trên .

Giá trị của nhớt tổng hợp Synthetic là xứng đáng với giá tiền của nó, là vì đây là lọai nhớt được dùng trong kỷ nghệ hàng không từ mấy chục năm nay. Nó là lọai nhớt duy nhất có thể hấp thu được nhiệt và chịu đượcđộ quay r.p.m. của đầu máy phản lực.

   9 ưu điểm của dầu tổng hợp:

– Động cơ không bị bẩn do cặn dầu
– Giảm tiêu hao nhiên liệu
– Tăng thời gian sử dụng của dầu nhớt
– Tính bôi trơn và khả năng khởi động động cơ được duy trì tốt trong điều kiện khí hậu lạnh
– Dễ dàng trong việc thay dầu khi cần thiết
– Chống sự ôxy hóa trong điều kiện nhiệt độ cao
– Cho kết quả rất tốt trong các thử nghiệm SAE-ASTM -API
– Chống bào mòn một cách vượt trội
– Khả năng dẫn lưu cực tốt đối với các loại xe tải hạng năng sử dụng động cơ diesel và xăng. Kết  quả này cũng tương tư cho các xe hành khách.

Do những ưu điểm trên + chi phí chế tạo cao … dầu tổng hợp được dùng trong quân sự, hàng không, và công nghiệp là chính … gần đây bắt đầu đưa ra sử dụng cho dân dụng

Nếu tiết kiệm vài ngàn đồng cho 1L dầu động cơ kém chất lượng là sẽ móc hầu bao trả tiền cho bộ turbo là khoảng chí ít = 800USD/bộ tùy hãng.

 Dầu động cơ có yếu tố bao gồm: dầu gốc và phụ gia được pha chế theo công thức của từng nsx dầu nhớt. Nhưng nếu nsx có tên tuổi sẽ sử dụng dầu gốc tốt và phụ gia tốt, cộng với kinh nghiệm nghiên cứu pha chế. Do vậy tại sao mỗi lít dầu nhớt sẽ có giá trị khác nhau tùy theo từng ứng dụng mà khi mua Người mua nên xem xét đó là: ngòai các con số SAE 20W – 50 hay SAE 40/50, nsx dầu nhớt đạt đến API SL/CF, SM/CF còn thêm các tiêu chuẩn như người mua còn thấy ghi thêm như: MB 229.1/229.5/229.3 hoặc VW 502.00/503.01/505.00 Opel GM LL A 025 hoặc BMW Oil . Đây là các tiêu chuẩn mà có thể 1 can dầu khác có cùng API nhưng lại không đạt tiêu chuẩn VW (Volkswagen), BMW, Opel General Motor, Mercedes-Benz.

Do vậy tại sao Người tiêu dùng ngòai việc quan tâm API còn phải để ý đến nsx xe đã đưa ra thêm tiêu chuẩn riêng như nêu trên. Quý vị nào hiện đang sỡ hữu xe cao cấp Mercedes-Benz, BMW, Porsche, AMG, LandRover, Lexus v.v.. lưu ý vấn đề này vì phần lớn dầu động cơ sẽ có tiêu chí riêng từng lọai, dòng sản phẩm.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *